Tướng
Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc làng An
Cựu Tây, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình
văn học, tôn sùng đạo Phật.
Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp
thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc
Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa
hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.
Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh
lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn
Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài Gòn và đã hồi hưu. Em
trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là
cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó
bằng Tú Tài I năm 1946. Tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, ông làm việc
tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951.
Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên,
gia nhập khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953. Mãn khóa
hồi tháng 10 năm 1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc
Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia
đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng
thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân
trên chiến trường Bắc Việt.
Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù,
Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình
Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ
Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi
viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật.
Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy. Năm 1962, Đại Úy Nam được đề
cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm1963,
khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.
Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn
Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc
hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm
tấn công một đơn vị của Sư đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá
Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ
Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù
do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi 1416 Ngok Van ở Kontum, tiêu
diệt một Trung Đoàn Chủ Lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng
Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau
Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn
mang cấp bậc trung tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished
Service Medal của Tổng Thống Hoa Kỳ.
Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ
đoàn. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận
Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh
thăng Đại Tá trong thời gian này.
Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh
thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 thì
được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng
Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực
Thụ.
Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm
làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn
IV-Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng
địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết của
một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48
tuổi.