Làn sóng điện thay thế thanh gươm, cây bút là phương tiện đi vào trái tim và khối óc mọi người. Mỗi chúng ta hãy là một chiến sĩ thông tin…Lời ngỏ cùng bạn đọc: Đại họa mất nước do Tập đoàn Việt gian Cộng sản (VGCS) bán nước đang đến rất gần! Đây là cuộc chiến khó khăn hơn bất kỳ cuộc chiến dành độc lập nào trong lịch sử vì VGCS là một thế lực cực kỳ hiểm độc, chúng núp dưới danh nghĩa đồng bào, thậm chí là người thân của chúng ta nên đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo trước cạm bẫy do chúng giăng ra. Trong nước, để làm sập bẫy người yêu nước, chúng nhào nặn ra bọn dân chủ "cuội", những tên đấu tranh cò mồi như: Cù huy Hà Vũ, Thích Quảng Độ, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Đan Quế, Hà Sĩ Phu, Tô Hải, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Lý, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Tiến Trung, Hoàng Minh Chính ... Tiếp tay cho chúng ở Hải ngoại là bọn chó đẻ Việt Tân và đám tay sai nằm vùng như: Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương thu Hương, Dân làm báo, báo Đàn Chim Việt, báo Người Việt, đài BBC, đài VOA... Nên nhớ, chính lũ nằm vùng này còn nguy hiểm hơn cơ quan chuyên chính của VGCS rất nhiều vì chúng giả bộ đi với ta nhưng lại đưa ta vào mê lộ do VGCS giăng ra.  
Chúng ta, những người con dân Việt yêu nước, còn có ý thức trách nhiệm với quốc gia - dân tộc, còn vì tương lai bản thân và con cháu mình hãy thức tỉnh lương tri khi thời cơ tới cùng đứng lên đập tan ngụy quyền VGCS, xây dựng lại một VN thật sự độc lập-tự do-hạnh phúc.
Qua trang web này, những bài viết rất có giá trị đã được chọn lọc nhằm giúp Quý bạn đọc hiểu rõ hiện tình đất nước, những tội ác ghê tởm của việt gian HCM và Ngụy quyền VGCS đối với dân tộc VN để mà qua đó chuẩn bị cho mình những kinh nghiệm đấu tranh hiệu quả nhất trước khi dấn thân vì đại nghĩa. Cùng chung tay góp sức, mong hãy phổ biến trang web này đến với tất cả mọi người (Download Blog tại đây...) 

Tiểu Sử Tướng Nguyễn Khoa Nam


Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc làng An Cựu Tây, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình văn học, tôn sùng đạo Phật.
    Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941.  Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương.  Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.
    Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em.  Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài Gòn và đã hồi hưu.  Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
    Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, ông làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951.
    Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên, gia nhập khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953.  Mãn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy.  Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt.
    Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn.  Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật.  Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy.  Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm1963, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.
    Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.  Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
    Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến  Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù.  Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi 1416 Ngok Van ở Kontum, tiêu diệt một Trung Đoàn Chủ Lực Bắc Việt.  Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn mang cấp bậc trung tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của Tổng Thống Hoa Kỳ.
    Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn.  Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này.
    Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang.  Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 thì được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ.  Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ.
    Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết của một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.  Ông tự sát khi mới 48 tuổi.

VNCH: Tôi gọi họ là Anh Hùng - Đặng Chí Hùng

VNCH: Tôi gọi họ là Anh Hùng 
Đặng Chí Hùng



Trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế "tất nhiên phải thắng" như tôi từng chứng minh trong 2 bài "Những sự thật cần phải biết - phần 1" thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...

Cứ mỗi độ xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thí ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là "Chiến thắng lẫy lừng" thì tôi lại phải xuống bút.

Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc "Ngụy" để mà đi "chống phá" cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc đã được đặt vào thế "tất nhiên phải thắng" thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...

Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh (Xin xem thêm "Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13") thì kẻ thắng đã được đặt vào thế "được thắng", còn người "thua" thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở "Những sự thật cần phải biết - phần 2". Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH -- vì với tôi họ là "Anh Hùng"!

Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ - những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không? 
Đặng Chí Hùng

Nguyễn Khoa Nam - Những phút tâm tình cuối cùng

Tại Sao Cần Phải Noi Gương Những Nhà Lãnh Đạo Họ Ngô

Các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và những người anh em khác trong gia đình họ Ngô Đình được giáo dục và hun đúc tinh thần yêu nước nhờ truyền thống Nho Giáo lâu đời. Có lẽ cũng chính vì được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền thống yêu nước như vậy, nên những người con trưởng thành từ gia đình họ Ngô Đình đặc biệt là các ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đều thể hiện lòng ái quốc tột bực. Lòng yêu nước tồn tại trong các ông đã biến thành những vũ khí làm cho kẻ thù phải nể sợ. Không phải tự nhiên mà tên giặc đại gian ác, lắm mưu mô xảo quyệt như Hồ Chí Minh phải chịu thua trước khí phách kiên cường của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi trong hoàn cảnh dù tay không tấc sắt lại nằm trong tay giặc, nhưng ông đã khẳng khái vạch mặt Việt Gian của Hồ bằng câu hỏi “Tại sao ông giết anh tôi?”. Câu nói đó ắt hẳn một người bình thường khó có thể làm được trong hoàn cảnh ấy, bởi Hồ lúc đó đầy uy quyền và dưới tay hắn là cả một băng nhóm du côn tàn bạo giết người không ghê tay. Thêm nữa, đứng trước nguy cơ bị thiệt hại tính mạng mà chính ông biết rõ hơn bao giờ hết nhưng ông đã không chịu lui bước, không chịu nhượng bộ với những kẻ giết mướn khi ông nói: “Mình là Tổng thống thì phải giữ tư thế của vị Tổng thống. Dầu mình chết cũng là vị Tổng thống”.....
Hãy phục hưng lai tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc của 2 vị anh hùng dân tộc Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, hãy tự hào khi là một thành viên của Đảng Cần Lao, hãy phục hoạt lại những chân giá trị của lịch sử, biết kế thừa trên những nền móng mà tiền nhân đã dày công xây dựng. Những kẻ đang tìm cách phá hoại hình ảnh tốt đẹp của 2 vị anh hùng dân tộc họ Ngô cũng như Đảng Cần Lao, là những tên Việt Gian đang là tay sai Thực Dân Đỏ tức Việt Gian Cộng Sản hoặc tay sai của chúng. Những người Việt yêu nước cần phải có hành động thích đáng trừng phạt lũ phản dân tộc này.




 ***
Trước hết, phải trần tình rằng người viết là thế hệ hậu bối, không có duyên được tận mắt chứng kiến, tận tai nghe thấu những sự kiện tang thương đã xảy ra trên đất nước Việt Nam trong những thời kỳ loạn lạc. Càng không được chứng kiến những màn đấu tố, cướp của, giết người man rợ của lũ Việt Gian khoác áo Cộng Sản. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không thể biết sự thật và càng không thể là không có quyền phán xét hay tìm hiểu sự thật. Lịch sử nước nhà thực sự đã bị bóp méo theo những chủ ý nhất định của những kẻ muốn thủ lợi vì sự bóp méo đó. Do quyền lợi cá nhân, do quyền lợi phe nhóm, do quyền lợi gia đình hay dòng họ. Nhưng cho dù vì bất cứ quyền lợi gì đi chăng nữa, thì đó vẫn thật sự là một tội ác với dân tộc Việt Nam, là trọng tội với Tổ Quốc Việt Nam. Cũng rất may, hồn thiêng sông núi vẫn còn, anh linh nước Việt vẫn còn nên những tư tưởng, di sản của văn minh nước Việt vẫn còn, giống như ai đó đã từng nói: “Tiếng Việt còn, thì nước Việt còn”. Người viết bài này xin viết ra đây những dòng thô thiển để bày tỏ suy nghĩ của một người thuộc thế hệ trẻ đang tìm một con đường cứu đất nước thoát khỏi họa diệt vong. Chuyện này là thực sự hiện hữu và nó sẽ không còn xa nữa, khi đất nước của chúng ta đã thực sự mất chủ quyền khi những tên Việt Gian núp dưới chiếc áo Cộng Sản để làm tay sai cho Tàu Cộng và các nước ngoại bang khác đang dùng vũ lực để nắm quyền cai trị. Vì vậy, nếu có những sai sót, mong rằng sẽ được quý bậc trưởng thượng, là những nhân chứng lịch sử đóng góp. Cũng phải nói cho rõ rằng, quý bậc trưởng thượng ở đây là người viết muốn ám chỉ đến những người Quốc Gia Chân Chính với tấm lòng vì dân vì nước thật sự, chứ không phải là những lũ cò mồi, nằm vùng, hoặc những loại đón gió trở cờ đang xuất hiện nhan nhản trong xã hội Việt Nam và kể cả ở Hải Ngoại cũng không ít. Lịch sử Việt Nam chúng ta gắn liền với việc chống chọi với giặc ngoại xâm, mà bề dày của nó là chống lũ xâm lược phương bắc. Nhờ có ý chí quật cường của những người con dân nước Việt mà độc lập của Việt Nam vẫn được duy trì, bảo tồn, và phát triển cho đến ngày nay. Tuy nhiên, cái giá phải trả đó không hề nhỏ, hầu hết các di sản văn hóa của dân tộc hoặc đã bị đánh cắp, hoặc bị tiêu hủy hoàn toàn. Kẻ thù của chúng ta đã làm chuyện này vì chúng âm mưu một kế hoạch tiêu diệt dân tộc Việt Nam để chí ít nếu có độc lập chúng ta cũng không thể mạnh hơn chúng được. Đó là thực tế. Sau khi dành lại được độc lập nhờ những xu thế không thể đảo ngược từ những ảnh hưởng chính trị ngoại giao của những nước lớn trên thế giới, những trí thức yêu nước chân chính vẫn còn, và họ đã làm tất cả để có thể khôi phục một Việt Nam què quặt sau đêm trường cai trị tàn bạo của thực dân Pháp. Tuy nhiên, vận may duyên lành đã không đến với dân tộc Việt Nam chúng ta bởi bên cạnh những người yêu nước, những sĩ phu chân chính, trong số những người Việt Nam chúng ta còn tồn tại những con chó ghẻ, những kẻ sẵn sàng vì quyền lợi cá nhân nhỏ nhoi mà chấp nhận bán đứng tiền đồ của dân tộc cho ngoại bang. Việt Gian Cộng Sản là một ví dụ điển hình. Việt Gian Cộng Sản được sinh ra vì quyền lợi bành trướng ảnh hưởng của Cộng Sản Nga, vốn chỉ mượn cái áo hiền lành của chủ nghĩa xã hội Mark để dùng đó làm phương tiện cạnh tranh ảnh hưởng với các nước Phương Tây vốn đã vượt xa nước Nga về trình độ khoa học, kỹ nghệ, và khoa học. Từ đó, đế quốc đỏ Nga Cộng tham vọng muốn dành giật những thuộc địa của thế giới tư bản xanh (tư bản Phương Tây), chính vì vậy Lenin đã lợi dụng chiêu bài giải phóng thuộc địa để đào tạo một thế hệ những tay sai đắc lực phục vụ cho quyền lợi của đế quốc đỏ. Đây là hiện thực không thể chối cãi, bởi di sản đồ sộ của tài liệu Đại Học Phương Đông vẫn còn được Nga lưu trữ. Và tất nhiên, những tên Việt Gian tiêu biểu của bè lũ Cộng Sản Việt Nam là những tên tay sai trong số đó. Hồ Chí Minh mặc dù chưa từng được nằm trong danh sách mà những tên thực dân đỏ chú ý đào tạo, song hắn lại là một tên tay sai tỏ ra đắc lực nhất. Bằng đủ những ngón nghề tiểu xảo của một tên lưu manh siêu hạng hắn đã lần lượt trừ khử tất cả những đối thủ có trọng lượng của hắn để leo đến vị trí của một tên tay sai đắc lực nhất cho cả để quốc đỏ Nga Cộng và Tàu Cộng đại hán bành trướng. Hắn đã thành công, và tất nhiên, sự thành công của hắn cũng như Tàu đỏ, Nga đỏ, đã là một tai họa cho dân tộc Việt Nam. Nhưng may mắn vẫn chưa hẳn đã rời bỏ dân tộc Việt Nam, chúng ta đã từng có một nửa giang sơn của tiền nhân để lại. Nơi đó, đã là chốn an toàn trú ẩn cho những chiến sĩ Quốc Gia Chân Chính. Chúng ta đã có cơ hội để bảo vệ sự độc lập ấy, để rồi nuôi hy vọng một ngày sẽ đuổi lũ bán nước ra khỏi bờ cõi để giành lại toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta đã từng có những nhà lãnh đạo anh minh, đạo đức, và sáng suốt để nhìn ra được con đường đi cho dân tộc. Nhưng, điều quái ác đã xảy ra cho dân tộc Việt Nam của chúng ta suốt chiều dài lịch sử vẫn là những chữ nhưng. Chúng ta đã để cho lũ ngoại bang sử dụng những tên tay sai mang dòng máu Việt để tiêu diệt những người lãnh đạo kiệt xuất đó rồi thay thế vào đó là những kẻ bất tài vô hạnh để dẫn tới cái ngày Miền Nam bị hoàn toàn sụp đổ. Chắc hẳn không phải cần nói thêm nữa, độc giả cũng có thể biết được người viết đang ám chỉ đến ai. Đó chính là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và người bào đệ của ông là Ngô Đình Nhu. Thảm cảnh diễn ra vào ngày tang thương không chỉ cho gia đình họ Ngô mà cả cho dân tộc như thế nào thì người viết sẽ không đi sâu vào chi tiết để bàn sâu thêm bởi sự việc đã được những chứng nhân lịch sử viết lại khá nhiều. Trong khuôn khổ bài viết này người viết sẽ chỉ đề cập đến những gì mà 2 người anh hùng dân tộc này đã làm và để lại cho chúng ta trong quá khứ. Các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và những người anh em khác trong gia đình họ Ngô Đình được giáo dục và hun đúc tinh thần yêu nước nhờ truyền thống Nho Giáo lâu đời. Có lẽ cũng chính vì được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền thống yêu nước như vậy, nên những người con trưởng thành từ gia đình họ Ngô Đình đặc biệt là các ông Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đều thể hiện lòng ái quốc tột bực. Lòng yêu nước tồn tại trong các ông đã biến thành những vũ khí làm cho kẻ thù phải nể sợ. Không phải tự nhiên mà tên giặc đại gian ác, lắm mưu mô xảo quyệt như Hồ Chí Minh phải chịu thua trước khí phách kiên cường của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi trong hoàn cảnh dù tay không tấc sắt lại nằm trong tay giặc, nhưng ông đã khẳng khái vạch mặt Việt Gian của Hồ bằng câu hỏi “Tại sao ông giết anh tôi?”. Câu nói đó ắt hẳn một người bình thường khó có thể làm được trong hoàn cảnh ấy, bởi Hồ lúc đó đầy uy quyền và dưới tay hắn là cả một băng nhóm du côn tàn bạo giết người không ghê tay. Thêm nữa, đứng trước nguy cơ bị thiệt hại tính mạng mà chính ông biết rõ hơn bao giờ hết nhưng ông đã không chịu lui bước, không chịu nhượng bộ với những kẻ giết mướn khi ông nói: “Mình là Tổng thống thì phải giữ tư thế của vị Tổng thống. Dầu mình chết cũng là vị Tổng thống”. Ở đây, rõ ràng câu nói của ông Ngô Đình Diệm đã thể hiện nguyên tắc “Chính Danh” trong Nho Giáo, không phải là sự tham quyền cố vị, bởi nếu tham giữ quyền lực, ông có thể mưu cầu một cuộc đào tẩu để một ngày kia quay về trị tội đám phản loạn, cũng không phải là ông không biết mình sẽ phải chết, bởi nếu không ông đã không nói đến cái chết đang cận kề. Khí tiết của một người làm việc vì đất nước đã khiến ông dám hy sinh để giữ thể diện cho Quốc Gia, cho gia đình, khi chấp nhận cái chết nhẹ tựa lông hồng chứ không ươn hèn để ngoại bang có thể coi thường tư cách của dân tộc hoặc bản thân ông. Trái lại, sau khi đã đảo chính thành công chỉ tốn vài trăn ngàn dollard, Lyndon B. Johnson đã gọi những kẻ phản tặc đảo chính là lũ du côn. Danh xưng đó cũng xứng đáng với những kẻ bất tài vô hạnh như đám tướng tá làm đảo chính theo lệnh của quan thầy ngoại bang. Nhưng cái hậu quả tệ hơn là hình ảnh của dân tộc Việt Nam đã bị hoen ố trong con mắt của những con buôn chính trị nước Mỹ. Bởi vậy, người Mỹ đã đưa quân vào Việt Nam mà không cần xin phép, xem Việt Nam như là một mảnh đất vô chủ. Khi còn sống cụ Ngô Đình Diệm đã từng nói “tôi tiến hãy tiến theo tôi, tôi lui hãy giết tôi, tôi chết hãy nối chí tôi”. Ông đã làm tất cả để chứng minh rằng ông không nói chỉ để tuyên truyền như tên Việt Gian Hồ Chí Minh, một kẻ đi bất cứ đâu chọn nơi trú ngụ cũng tính toán đường chạy trước tiên.
Ông Ngô Đình Nhu
Về phần ông Ngô Đình Nhu, mặc dù không có được cái uy dũng của một lãnh tụ quốc gia như ông Ngô Đình Diệm, song ở trong con người của ông Ngô Đình Nhu là một trái tim yêu nước nồng nàn. Tất cả lòng yêu nước đó đã được ông gởi gắm trong tác phẩm “Chính Đề Việt Nam” mà ông là tác giả thủ bút. Từ kiến thức và kinh nghiệm của một người vốn nghiên cứu chuyên môn cổ tự, thư viện, và am tường lịch sử, ông đã đúc kết tư tưởng của mình trong cuốn sách “Chính Đề Việt Nam”. Không lý thuyết xa vời, không luận bàn hàn lâm, không tranh cãi vô bổ, ông Ngô Đình Nhu đã phân tích từ những dữ kiện lịch sử để đi đến những nhận định một cách khách quan, từ đó đưa ra những hành động cụ thể. Tư tưởng của Ngô Đình Nhu có thể tóm lược một cách chung nhất đó là: xây dựng một hệ thống lãnh đạo quốc gia có nền tảng, có tính kế thừa, và mang đạm nét tự tôn dân tộc. Qua phân tích bối cảnh lịch sử của Việt Nam, ông nhận thấy rõ ràng một chân lý là: kho tàng văn hóa cũng như trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã bị phá hủy nghiêm trọng bởi kẻ thù xâm lược, hết Tàu lại Pháp, chúng luôn tìm cách tiêu diệt những nền tảng văn hóa của dân tộc Việt Nam trong thời gian cai trị. Quả đúng như vậy, chẳng có một kẻ xâm lược nào lại muốn những người bản xứ tự vươn lên làm chủ, chính vì vậy, chủ trương ngu dân, đốt sách, ăn cắp tư liệu quý là hành động thường thấy ở những kẻ xâm lược. Cũng chính bởi sự chèn ép và tiêu diệt văn hóa Việt Nam một cách có chủ đích và hệ thống, nên lãnh đạo ở Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử luôn có một đặc điểm là không có tính kế thừa. Như vậy, tư tưởng của ông Ngô Đình Nhu rõ ràng đã nhắm tới một mục đích duy nhất là gây dựng một nền tảng cho chính trị học Việt Nam, tạo ra tính liên tục và kế thừa cho những giai đoạn lãnh đạo đất nước kế tiếp, từ đó đưa Việt Nam đến phú cường. Bây giờ đặt câu hỏi, nếu đất nước được phú cường, thì ai là người được hưởng lợi? chắc chắn là không chỉ gia đình họ Ngô Đình, mà là toàn thể nhân dân Việt Nam. Như vậy, hành động, tư tưởng, và việc làm của ông Ngô Đình Nhu là vì mục đích cá nhân hay vì tương lai chung của dân tộc? Vì vậy, những kẻ vu cáo cho 2 anh em ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm là gia đình trị là hoàn toàn có mưu đồ ác ý. Nếu hiểu một cách có thiện ý thì có thể những lời phê phán đó chỉ đơn giản xuất phát từ sự ghen tị tầm thường của những kẻ dốt nát mà muốn đua chen, bất tài mà muốn được ngồi ngôi cao, không công trạng mà muốn được hưởng bổng lộc, không đức độ mà đòi được người đời trọng vọng. Nếu hiểu theo cách phê phán một chặt chẽ hơn, sẽ thấy những dụng ý đạp đổ những tư tưởng phục hưng đất nước sẽ đồng nghĩa với việc làm lợi cho ngoại bang, cho kẻ thù của dân tộc. Tất nhiên không một kẻ thù nào cũng như các nước ngoại bang lại muốn cho dân tộc Việt Nam có thể vươn lên cạnh tranh với họ, vì vậy hành động tiêu diệt, hủy bỏ những tư tưởng yêu nước sẽ đồng nghĩa với việc phản quốc, làm Việt Gian tay sai cho ngoại bang. Ngoại bang ở đây là ai? Là những kẻ tự nhận mình là đồng minh với tất cả những nước yêu chuộng tự do, Hoa Kỳ. John F. Kenedy từng tuyên bố người Mỹ đang chiến đấu vì tự do, sẽ đưa vai gánh vác với các nước tự do, nhưng thực tế người Mỹ đã nói dối. Họ đến Việt Nam không phải vì muốn bảo vệ cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi bàn tay của lũ thực dân đỏ, mà họ muốn tạo ranh giới với thế giới mới bằng cuộc chiến tranh lạnh. Hoa Kỹ không kết thúc chiến tranh ở Triều Tiên bằng việc giải phóng cho nhân dân Triều Tiên thoát khỏi nanh vuốt của lũ Thực Dân đỏ. Hoa Kỳ cũng đã làm điều tương tự với nhân dân Việt Nam, với nhân dân Đức. Hoa Kỳ chỉ muốn điều khiển cuộc chiến theo ý muốn của một người chia lại thế giới, chứ không hề đếm xỉa đến tự do của những người dân bị áp bức. Chính vì vậy, thay vì chính sách tiêu diệt tiềm lực của đám tay sai khủng bố đỏ là những tên Việt Cộng nằm vùng bằng Ấp Chiến Lược của chính phủ Ngô Đình Diệm, người Mỹ đã tìm mọi cách đưa quân đội vào Việt Nam để leo thang chiến tranh buộc nhân dân Việt Nam phải rơi vào cảnh máu lửa. Khi bị khước từ quyết liệt từ phía chính phủ đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ đã cấu kết với những tên Việt Cộng nằm vùng như Thích Trí Quang, tạo cho những tên Việt Gian này những ưu thế để xách động quần chúng nổi dậy chống chính quyền. Xáo trộn chính trị yên bình của Việt Nam Cộng Hòa đệ nhất luôn bị bàn tay lông lá của CIA thò vào, cuối cùng, Hoa Kỳ đã bỏ tiền để thuê những tên tay sai cho thực dân Pháp trước kia để loại bỏ một chính phủ vì Tổ Quốc Việt Nam, vì Dân Tộc Việt Nam. Đây là một ví dụ tiêu biểu cho khái niệm ngoại bang mà người viết ám chỉ tới. Ai là kẻ thù? Là những kẻ thực hiện kế hoạch xâm lược Việt Nam dưới mọi hình thức, bằng vũ trang, bằng đào tạo tay sai để cai trị Việt Nam theo sự chỉ đạo của chúng, bằng việc rũ bỏ tất cả những giá trị dân tộc để thay thế bằng tư tưởng sùng bái, nô lệ chúng. Nga Cộng và Tàu Cộng là những thế lực như vậy. Nga Sô là quốc gia đầu tiên đã bị cưỡng ép chấp nhận chủ thuyết Cộng Sản qua cái gọi là Cách Mạng Tháng Mười. Thực chất Cách Mạng Tháng Mười là một ngụy từ để che đậy âm mưu xâm lược của Lenin qua chiêu bài Quốc Tế Cách Mạng. Quốc Tế Cách Mạng để Lenin có thể xách động những người lao động khốn khổ phương tây nổi dậy chống chính quyền làm rối ren tình hình chính trị của các nước phương tây. Quốc Tế Cách Mạng để dụ khị những người dân bị áp bức ở xứ nô lệ vùng lên chống lại chính quyền cai trị, để rồi thoát được nanh vuốt của Tư Bản Xanh như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, vv… thì lại rơi trọn vào tầm ảnh hưởng của Nga. Quốc Tế Cách Mạng để đào tạo một thế hệ thái thú, toàn quyền kiểu mới với sự cai trị dựa vào những tên tay sai bản xứ. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Lenin là người đầu tiên đề cập đến vấn đề thuộc địa. Trung Cộng là một nạn nhân của Nga Cộng, tuy nhiên, ý thức của một kẻ đại hán đã chỗi dậy để chúng đủ khôn khéo mà sử dụng sự hỗ trợ của Nga Cộng để nuôi dưỡng mộng bành tướng. Chính vì vậy, mặc dù tại Tàu, vẫn còn tồn tại cảnh người kéo cày thay trâu ngựa, nhưng vẫn có “cách mạng cộng sản” xảy ra. Và Mao Trạch Đông đã sáng tạo ra những cái ngu xuẩn nhất, mâu thuẫn nhất trong thế giới loài người đó là tiến lên thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa từ một nước còn rửa chưa sạch những ý nghĩ quân thần. Ai là tay sai? Tất nhiên đó là Hồ Chí Minh và băng đảng của hắn. Khác với nhiều nhân sĩ xuất dương để mưu cầu chuyện cứu nước bằng con đường học vấn, Hồ xuất ngoại để tìm đường mưu cầu phú quý. Đặt chân lên đất Pháp, hắn đã làm đơn xin được làm tay sai cho Thực Dân Pháp qua lá thư xin học Trường Thuộc Địa. Thất bại, hắn bèn tìm đến một ông chủ khác là Nga Cộng, nhưng vì vốn học thức của hắn quá nghèo nàn nên Stalin cũng như các quan thầy của hắn không trọng dụng. Theo chân Borodin hắn làm chân phiên dịch, thực hiện xứ mạng đỏ hóa nước Tàu. Dù vậy, với khả năng lưu manh được trường đời đào tạo, nên hắn đã dần hãm hại tất cả những ai cản bước đường tiến thân của hắn để leo lên vị trí đắc lực nhất trong hàng ngũ tay sai của Thực Dân Đỏ mang máu Việt. Chính vì trong Hồ, không hề tồn tại một chút mảy may về lòng yêu nước, nên Hồ khác với Mao Trạch Đông là đã không lợi dụng sự giúp đỡ của Nga Sô như một phương tiện, mà hắn chấp nhận làm thân khuyển mã để phục vụ lợi ích của mẫu quốc đỏ và sau này là cả Tàu Cộng vì quyền lợi thống trị nhân dân Việt Nam để được hưởng cái thú của những loại hôn quân trong lịch sử kiểu Lê Ngọa Triều, Minh Mạng, Tự Đức vv… Như vậy như đã phân tích nhận xét ở trên, những kẻ vì lợi ích bản thân mà tiêu diệt tinh thần yêu nước của 2 anh em họ Ngô thì có nghĩa chúng có chung mục đích với ngoại bang, kẻ thù và tay sai cho Thực Dân Đỏ. Để minh chứng cho điều này, người viết xin đưa thêm những dẫn chứng khác. Sau khi đã vâng lệnh ngoại bang, thông đồng với bọn tay sai Thực Dân Đỏ tiêu diệt lãnh tụ, đám tướng tá du côn đã tiếp tục nghe lời xúi giục của những tên Việt Cộng nằm vùng để tiêu diệt, truy lùng những thành viên đang Cần Lao vốn được ông Ngô Đình Nhu xây dựng với kỳ vọng đào tạo ra một lớp lãnh đạo kế tiếp để kế tục sự nghiệp của ông Ngô Đình Diệm. Chưa hết, tất cả những thành tựu đã làm được của chính phủ đệ nhất Cộng Hòa đều đã bị thiêu hủy không thương tiếc, những mạng lưới tình báo chống thâm nhập của VGCS bị phá bỏ, Ấp Chiến Lược là vũ khí hữu hiệu để cách ly VGCS với những người dân thường cũng bị xóa xổ, những tên VGCS nằm vung ác ôn được tha bổng. Vậy thử hỏi, sau ngần đấy những việc làm phản quốc đó thì liệu đám tướng tá đảo chánh có được xem là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hay là Lũ Côn Đồ Phản Quốc? Hiện nay, đất nước đã rơi vào cảnh thực sự lâm nguy, không phải bởi sự xâm lược của Tàu Cộng đang hiện hữu mà là bởi những khái niệm đã bị hoàn toàn đảo lộn tại Việt Nam. Người yêu nước thì bị gọi là Việt Gian, lũ bán nước thì được gọi là yêu nước, bọn phản quốc thì ngẩng cao đầu, người cứu nước thì phải lẩn tránh. Lịch sử bị đảo lộn, người tốt kẻ xấu lẫn lộn, sự chen chân phá hoại của VGCS ở khắp mọi nơi, từ cộng đồng đến tổ chức tôn giáo, gây nghi hoặc chán nản cho tất cả những người còn tấm lòng với đất nước. Khi tốt xấu không phân biệt được, đúng sai không rõ ràng, trắng đen lẫn lộn, tức là luân lý bị mất, xã hội cũng như con người sẽ rơi vào trạng thái của những con vật, làm theo bản năng. Như vậy nếu nước chưa mất, thì cũng sẽ mất, dân tộc có còn thì cũng sẽ bị đồng hóa. Ngược lại, đạo lý còn thì dầu, nước có mất vẫn lấy lại được, dân tộc có lưu vong cũng không bị xóa xổ, ngày tăm tối qua thì tương lai sáng lạn sẽ tới, giống như Nguyễn Trãi từng viết “Càn Khôn Bĩ Rồi Lại Thái, Nhật Nguyệt Hối Rồi Lại Minh”. Vì vậy, hãy phục hưng lai tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc của 2 vị anh hùng dân tộc Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, hãy tự hào khi là một thành viên của Đảng Cần Lao, hãy phục hoạt lại những chân giá trị của lịch sử, biết kế thừa trên những nền móng mà tiền nhân đã dày công xây dựng. Những kẻ đang tìm cách phá hoại hình ảnh tốt đẹp của 2 vị anh hùng dân tộc họ Ngô cũng như Đảng Cần Lao, là những tên Việt Gian đang là tay sai Thực Dân Đỏ tức Việt Gian Cộng Sản hoặc tay sai của chúng. Những người Việt yêu nước cần phải có hành động thích đáng trừng phạt lũ phản dân tộc này.Trọng Tín (Kyoto)

Vinh Danh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa






TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!

Gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng chiến sĩ VNCH đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ - những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?

Thứ nhất: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.

Thứ hai: Với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự - trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản. Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?

Thứ ba: Nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những vị tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trận Văn Hai, Phạm Văn phú, Lê Nguyên Vỹ,... Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.

Thứ tư: Khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và còn “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?

Thứ năm: Sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản Việt Nam.

Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!

Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH - Những người anh hùng - Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu! Xem thêm... 
VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA: 
 ANH HÙNG TỬ - KHÍ HÙNG BẤT TỬ  





Người là ai? - Nhạc sĩ Hoàng Tường

Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

  

Tổ Quốc Cờ Vàng

Tuổi trẻ VN Vinh danh Quân lực VNCH   

 Hùng Ca Việt Nam Cộng Hòa   


 Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 

 Hành Khúc Không Quân VNCH

 Liên Khúc Quân Hành VNCH   

Hành Khúc Hải Quân VNCH   

 Hành Khúc Lục Quân VNCH
 
Hành Khúc Sư Đoàn Dù

 Liên Khúc Quân Ca 


Quốc Hận 30-4: Ngũ hổ tướng quân VNCH tử tiết  
 Từ thời điểm năm 1945-1954, để ngăn chận hiểm họa Cộng Sản bành trướng trên thế giới, Mỹ đã cố vấn và viện trợ cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa được bổ sung, huấn luyện và kiện toàn trở thành Quân Lực hùng mạnh, tinh nhuệ, thiện chiến có hạng trên thế giới như một cường quốc quân sự. 
Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nầy đã được tôi luyện gian khổ từ trong những quân trường “luyện thép” có tầm vóc quốc tế, đã chứng tỏ khả năng thiện chiến kinh qua những chiến trường khắp bốn Vùng Chiến Thuật, đã đoạt những chiến thắng oanh liệt vang dội thế giới như: Tết Mậu Thân (1968), Khe Sanh (1969), Quảng Trị, An Lộc, Kontum (1972), …Và bi hùng lẫm liệt thay…có gì để so sánh hơn ở giai đoạn cuối mùa cuộc chiến, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa bị “Đồng Minh” Mỹ cắt viện trợ, bỏ rơi, bán đứng, bàn giao miền Nam Việt Nam cho Bắc Việt và Trung Cộng như thân phận của con chốt thí trên bàn cờ Chính Trị, mỗi Chiến Sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ được trang bị cấp số 3 band (30 viên) đạn, mỗi khẩu trọng pháo chỉ được bắn 3 trái đạn mỗi ngày mà thôi…! Nhưng họ vẫn anh dũng chiến đấu với Bắc Quân trên khắp chiến trường khốc liệt cho đến viên đạn cuối cùng, rồi thu nhặt vũ khí trên xác chết của quân địch tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị tràn ngập, thất thủ như đơn vị Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù tại mặt trận Khánh Dương ở cuối đường lui quân liên tỉnh lộ 7, Quân Đoàn 2...! Tỉnh Lộ 7 đường lui quân bi thãm…! Mỗi thước đường một thân xác quân dân ! Nhưng: Bắc quân phơi xác trên đường Nam tiến Khánh Dương là mồ Sinh Bắc Tử Nam…! Rực lửa chiều hôm khét áo Hoa Dù Mũ Đỏ phục hận cuồng phong vần vũ Mãnh Hổ chiến Lữ Đoàn 3 vùng vẫy Bắc quân trùng trùng khép chặt vòng vây… Quê Hương ơi lửa cháy đỏ từng làng Đâu đó vành khăn tang ai chít vội ! Vâng. Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu oai hùng, nhiệm mầu, linh thiêng dòng chiến sử tại mặt trận Xuân Lộc với Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Nhất Kiếm Trấn Ải đã chận đứng lũ cường giặc tiến chiếm thành phố SàiGòn tháng 4-1975, tiếng bom đạn nổ xé rách màn đêm, rung rinh thành phố, khói lửa rực trời cuồn cuộn tầng mây: Vỡ tuyến Khánh Dương giặc tràn Xuân Lộc Chiến Đoàn 52 cản địch ở Dầu Dây Cuộc chiến Thư Hùng quyết liệt nơi đây Bom đạn xé gió rung rinh thành phố Tin chiến thắng của Sư Đoàn 18 Tử khí dậy trời u ám buổi hoàng hôn Bắc quân thiêu tan xác hai Sư Đoàn Đêm thấp thoáng chập chờn bóng ma ẩn hiện Vâng. Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu từ khởi đầu của cuộc chiến Quốc-Cộng để Bảo Quốc và An Dân trong suốt thời gian dài cho đến ngày 30-4-1975…! Nhưng cũng chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nầy đã bị oan khiên với cái “Tội” và “Nghiệp” vì đã “ Bị, Được” chọn làm “Đồng Minh” với Mỹ. Các quốc gia Tây Phương và cả thế lực tôn giáo lớn bị mất quyền lợi thuộc địa…họ căm thù Mỹ nên đã thỏa hiệp, cộng tác, góp sức hậu thuẩn từ chính trị, ngoại giao, tình báo gián điệp, kinh tế, truyền thông, báo chí…hợp quần với các quốc gia trong khối Cộng Sản được lãnh đạo bởi Nga, Tầu quân viện cho Bắc Việt xua quân vào Nam quyết tiêu diệt Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thực chất và mục đích quyết xẻ thịt thớt voi Mỹ để trả thù. Vì bị Tây Phương và khối Cộng Sản tấn công khắp mặt trận ngoại giao như là một “ Đế Quốc Xâm Lăng” …nước Mỹ phải cưu mang và viện trợ cho Lực Lượng Đồng Minh: Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân. Những chi phí hao tốn vượt bực đã làm hao mòn, suy yếu, tổn hại sinh lực nước Mỹ, khiến giới lãnh đạo Mỹ buộc phải đi đến giải pháp “ Đi Đêm” đạt thỏa hiệp với Nga, Tầu để rút quân Mỹ an toàn thoát ra khỏi vũng lầy chiến tranh Việt Nam và Họ cắt hết tất cả quân viện, trói tay Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bàn giao cho Bắc Cộng. Họ trân tráo, giáo giở tuyên bố :” …trang sử Việt Nam đã được lật qua...” Như thế đó! Chính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không chỉ chiến đấu với quân Bắc Cộng. Thực thể Họ đã chiến đấu với toàn thể các thế lực Tây Phương và đại khối Cộng Sản trên thế giới. Chính chúng ta phải khẳng định và điểm mặt thế giới và Tuyên Ngôn dõng dạc rằng:” Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tinh Nhuệ, Thiện Chiến Có Khả Năng Bảo Vệ Hơn 85 Triệu Đồng Bào Việt Nam Và Trấn Giữ Vẹn Toàn Bờ Cõi, Biên Cương Đất Nước”. Nếu không bị “Đồng Minh” Mỹ phản bội! Thường thường sau những biến cố quan trọng, gần thì liên quan đến bản thân, xa thì liên quan đến cả vận mệnh quốc gia, dân tộc…mỗi người trong xã hội đều phải để tâm suy nghĩ, phân tích cố gắng tìm cho được phương pháp, đường lối, hướng đi để hành động cải thiện và hoàn chỉnh nếp sống…Tiền Nhân Việt đã thiện hành mỹ mãn làm tấm gương soi cho hậu thế như:- Trần Bình Trọng đã khí khái thét vào mặt kẽ thù: “ Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc”. - Võ Tánh, Ngô Tùng Châu: “ Khẳng khái cần vương dỵ, thung dung tựu nghĩa nan”. - Phan Thanh Giản: “ Hết dạ giúp vua trời đất biết, tan mình vì nước quỷ thần hay”. - Nguyễn Thái Học: “ Chết vì tổ quốc, cái chết vinh quang, chí ta sung sướng lòng ta nhẹ nhàng”. Xưa đã thế! Nay vẫn Thế! Nước mất, nhà tan, Tướng tuẫn tiết chết theo thành. - Tướng Nguyễn Khoa Nam - Tướng Trần Văn Hai - Tướng Lê Văn Hưng - Tướng Lê Nguyên Vỹ - Tướng Phạm Văn Phú Những vị Tướng “Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần” Họ đã uy dũng, thao lược chỉ huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đoạt chiến thắng trên những cuộc thư hùng với địch quân để Bảo Quốc, An Dân khi còn tại thế. Thất thủ, tuẫn tiết chết theo thành để gìn giữ vẹn tròn danh tiếng lưu lại sử xanh cho ngàn đời sau… Anh Hùng tử khí hùng nào tử Lưu thủ đan tâm chiến hữu thanh Hơn 500 năm trước, Đông Các Đại Học Sĩ, Trình Tuyền Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bày hương án kính cáo Thiên Địa, Quỷ Thần chấp bút khai Sấm Ký trên Đoạn Cẩm rằng: Dần Mão lai thố nguyệt kỳ Tài tận dân hao thế sự suy Quyết chiến đê đầu quân quyết chiến Quốc Quân hãm nịch, Quốc Quân dy Diễn Ý Nghĩa: Thời điểm tháng Hai năm Mão âm lịch thế sự suy tàn, người và của cải hao tán, quân Quốc-Cộng đối đầu quyết chiến, quân Quốc Gia bị âm mưu dìm xuống sông nước cho chết. Nhưng cũng chính quân Quốc Gia được dy thoát đi được ra khỏi nước. Chiến Sĩ Cộng Hòa trước năm 1975 là cơ quan ngôn luận của tập thể Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa cũng đã bị Hãm Nịch, dìm cho chết chìm với vận nước đen tối…! Nay Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà được vực dậy từ đau thương vì trong triệu… triệu… trái tim của đồng bào Việt Nam hãy còn luôn luôn cưu mang, thương tiếc, trân trọng quí mến…! Như thế đó Chiến Sĩ Cộng Hòa vượt lên từ đáy vực oan khiên, cô nghiệt, lẫm liệt trên nỗi bi thương hùng tráng Trẫm Triệu chỉ vào mặt cường địch mà nộ khí thét rằng:” Chiến Sĩ Cộng Hòa là tiếng nói bất khuất của Quân, Dân, Cán, Chính và thế hệ Hậu Duệ đấu tranh lật đổ bạo quyền Việt Gian Cộng Sản”. Trống trường thành lung lay bóng nguyệt Khói cam tuyền mờ mịt thức mây... Chiến Sĩ Cộng Hòa Vị Quốc Chân Ngôn Xướng Nghĩa.
Ai Người Yêu Nước Ứng Hiệp Chăng...? Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa